Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Năm) là một y sĩ và là thầy giảng;
sinh năm 1768 tại Mỹ Hương, Quảng Bình; chết 10 tháng 7 năm 1840 tại Ðồng Hới.
Ngài bị bắt năm 1838 vì thuộc Hội Thừa Sai Balê. Trong hai năm tù ngài chăm lo
cho các tù nhân và chịu đựng nhiều cuộc tra tấn. Bị xử giảo (thắt cổ) chết. Đức
Lêo XIII suy tôn ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.Ngày Lễ
kính 10 tháng 7.
Vay mượn để giúp người
"Nếu bà và các con không cho tôi lấy của nhà giúp người,
tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê, kiếm tiền giúp họ". Đó là một câu nói đầy
cương quyết nhưng chân thành của quan vệ uý, cũng là ông lang và là ông trùm :
Ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh. Câu nói đó cho chúng tôi thấy và hiểu về một cuộc đời
72 năm phục vụ con người để phục vụ Thiên Chúa.
Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh năm 1768 tại làng Mỹ Hương, huyện
Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Cha là Antôn Nguyễn Hữu Hiệp, mẹ là Mađalêna Lộc. Theo
gia phả ông Quỳnh là con cháu đời 15 của đệ nhất Công Thần Nguyễn Trãi
(1380-1442). Vì là con thứ năm, nên thường được gọi là Năm Quỳnh.
Thời niên thiếu, cậu xin làm đệ tử Đức Cha Labartette Bình
có ý học làm linh mục, nhưng vì hai người anh trai cũng xin đi tu nên gia đình
gọi cậu về để nối dõi tông đường. Năm 1800, theo việc cắt cử của làng xã, anh
gia nhập đội quân của Nguyễn Ánh, góp phần chiến thắng quân Cảnh Thịnh và được
thăng chức Vệ Uý. Đến khi đất nước đã thống nhất (1802), Gia Long lên ngôi, ông
thấy đời quân ngũ không thích hợp, liền xin giải ngũ. Trở về quê nhà, ông mua một
thửa đất canh tác và buôn bán thêm để sinh sống. Đồng thời ông dành nhiều giờ đọc
thêm nghề thuốc, và dần dần trở thành một lương y nổi tiếng khắp vùng. Nhờ đó
kinh tế gia đình ngày càng khá giả hơn.
Gia đình, xã hội và giáo hội
Thế nhưng đối với ông Quỳnh, tài sản khả năng Chúa ban cho
là để phục vụ mọi người, nên thay vì thu tích cho bản thân, ông quan tâm phục vụ
dân nghèo một cách tận tình. Đối với họ ông chữa bệnh miễn phí, săn sóc và đôi
khi còn tặng họ thêm tiền để làm vốn nữa. Khi vợ con lên tiếng kỳ kèo, ông trả
lời rằng : "Tôi chưa thấy những ai hay giúp đỡ người nghèo khó mà túng bấn
bao giờ. Kinh thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao
? Chúa đã cho chúng ta sống tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Khi các con khôn lớn, ông nói với chúng : "Cha đã nuôi
dưỡng các con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình. Cha
muốn để dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khổ"
Lòng thương người của ông được biểu hiện rõ rệt hơn khi làng
ông gặp thời kỳ dịch tả. Ông bỏ ra cả hàng trăm quan tiền để phát thuốc nuôi dưỡng
và chăm sóc các bệnh nhân cách tận tuỵ quên mình. Thế nhưng tinh thần bác ái
Kitô giáo đòi ông phải đi xa hơn một bước nữa. Ông vâng lời Đức Cha Labartette
Bình dạy giáo lý trong hạt. Để phục vụ con người một cách trọn vẹn hơn cả xác lẫn
hồn, ông Năm Quỳnh nhận lời làng Mỹ Hương giữ chức trùm trưởng.
Trong thời cấm đạo các linh mục tu sĩ phải rút vào bóng tối,
vai trò của những người như ông rất cần thiết. Từ nay nhà ông biến thành lớp
giáo lý trong hạt, thành nơi tiếp nhận các thừa sai và giáo sĩ. Từ nay ông đứng
ra điều khiển tổ chức mọi sinh hoạt kinh nguyện, tang lễ và bác ái trong vùng.
Tuổi càng cao, ông càng sắp xếp công việc một cách trọn vẹn và chín chắn hơn,
do đó ông càng được mọi người tin phục. Điều đáng lưu tâm là dầu bận rộn với
công việc tông đồ, ông vẫn khéo léo chăm sóc dạy dỗ con cái sống Tin Mừng. Cô
gái lớn gia nhập dòng mến Thánh Giá, sau làm bà nhất toàn thể dòng mến Thánh Giá
giáo phận. Những người con khác cũng theo gương ông: trung kiên với niềm tin,
và cùng với ông quên lợi riêng để lo cho công ích.
Hoa quả của đức tin
Năm 1838, vua Minh Mạng ra lệnh truy nã linh mục thừa sai
Candalh Kim. Ông Quỳnh thân hành đưa cha lên Kim Sen, một trang trại cũ của tổ
tiên mình, và đem theo một số sách vở cũ, ảng tượng của xứ Mỹ Hương. Thấy ông
đi vắng lâu ngày, quan sai lính đến nhà ông khám xét. Họ lôi các đầy tớ ra đánh
đập tra khảo, một người sợ quá đã khai ra chỗ ở của chủ. Khi đó quan định bắt
luôn bà Quỳnh và hai cô con gái út, một cô 14 tuổi, một cô 10 tuổi đang ở nhà.
Quan cưỡng bức ba mẹ con xuất giáo nhưng không ai tuân lệnh. Tức giận quan cho
lính đánh vào chân hai đứa bé để ép buộc bước qua Thánh Giá, hai cô vẫn không
chịu khuất phục. Đám lính liền xông đến lôi kéo hai chị em bứơc qua. Dĩ nhiên với
tuổi nhỏ sức yếu, hai cô bé không thể chống cưỡng lại được, nhưng một mực hai
cô bé kêu khóc mình bị ép buộc, chứ lòng luôn luôn tôn kính Thánh Giá. Quan
không dấu được sự thán phục tấm lòng son sắt, và đã tha cho cả ba mẹ con.
Tiếp đó quân lính đến vây trại Kim Sen. Sau khi bắt được ông
Quỳnh và thâu được một số sách đạo, họ liền áp giải ông về Đồng Hới. Giữa đường
ông nhắn tin một người con kín đáo đến gặp và hối lộ cho lính 50 quan tiền để đốt
sổ ghi tên những người tín hữu trong xứ.
Tại trại giam Đồng Hới, ông Quỳnh vui mừng vì gặp được linh
mục thừa sai Borie Cao, cha Điểm, cha Khoa cùng thày Tự. Nhiều lần ông cũng bị
tra tấn chung với các vị ấy. Nhưng bao giờ ông cũng tuyên xưng: "Thà chết
không thà chối Chúa, dù chỉ trong giây lát". Có lần quan cho lính lôi ông
qua Thánh Giá, ôn liền lớn tiếng phản kháng rằng : "Việc này do quan lớn
làm, nếu có tội là quan phạm tội, chứ không phải tôi". Câu nói đó làm quan
bực mình truyền đóng gông giải ông về ngục. Mấy bữa sau quan hỏi cha Cao tại
sao ông Năm lại cứng cổ đến thế.
Vị thừa sai trả lời: "Các giáo hữu bước qua Thánh Giá vì họ không hiểu rõ giáo lý và nhát gan, còn ông Năm đã am tường lẽ đạo, lại mạnh mẽ đức tin, quan lớn cưỡng bách mấy cũng vô ích, chẳng có lợi gì đâu". Thất vọng quan gởi án về kinh đô. Đức Cha Cao bị án trảm quyết (chặt đầu), hai cha Điểm, cha Khoa thì bị kết án xử giảo ngay, còn thày Tự và ông Antôn cũng bị xử giảo nhưng "giam hậu", nghĩa là lệnh xử sẽ ban hành sau.
Vị thừa sai trả lời: "Các giáo hữu bước qua Thánh Giá vì họ không hiểu rõ giáo lý và nhát gan, còn ông Năm đã am tường lẽ đạo, lại mạnh mẽ đức tin, quan lớn cưỡng bách mấy cũng vô ích, chẳng có lợi gì đâu". Thất vọng quan gởi án về kinh đô. Đức Cha Cao bị án trảm quyết (chặt đầu), hai cha Điểm, cha Khoa thì bị kết án xử giảo ngay, còn thày Tự và ông Antôn cũng bị xử giảo nhưng "giam hậu", nghĩa là lệnh xử sẽ ban hành sau.
Thời gian trôi qua quá nhanh thấm thoát ông Quỳnh và Thày Tự
đã giam hai năm tròn. Trong thời gian đó quan sốt ruột gởi sớ về kinh ba bốn lần
xin xử tử, nhưng vua Minh Mạng cứ trì hoãn, viết thư khuyên quan quân cứ từ từ
kiên nhẫn. Trong một lá thư gởi về hội Thừa Sai, cha Miche Mịch giải thích lý
do như sau:
"Ông Antôn quen biết nhiều các quan, lại từng chữa bệnh
cho nhiều vị quan nữa. Rất nhiều người biết đến nhân đức và kiến thức của ông
nên trọng nể. Do đó, thái độ của ông có tầm ảnh hưởng lớn trong dân. Đối với họ,
cướp được con mồi lớn như thế từ tay Đức Giêsu là một chiến thắng lớn lao. Thế
nên chẳng lạ gì "hỏa ngục" phải tìm trăm nghìn phương kế để dành lại
phần thắng sắp mất".
Phần ông Quỳnh dù đã 72 tuổi, vẫn biểu lộ đức can đảm và nhẫn
nại đáng khâm phục. Suốt ngày ông lo đọc kinh cầu nguyện, như mọi giáo hữu ở
ngoài, ông giữ chay và yêu thương giúp đỡ mọi người. Nghề lang y của ông vẫn có
cơ hội dùng đến, có lần ông chữa cho một viên quan ở Đồng Hới, và nhất là chữa
bệnh cho các bạn tù đồng số phận.
Lời trăn trối sau cùng
Thấy thời gian cũng không làm nản lòng ông Quỳnh, vua Minh Mạng
chấp thuận cho quan tỉnh Quảng Bình xử giảo ông ngày 10-07-1840.
Bản tường trình cuối cùng của vị quan có nhiệm vụ xét xử các
ngài: "Hạ thần Nguyễn Xuân Quang, quan án tỉnh Quảng Bình, thừa hành theo
lệnh của Hoàng Thượng xin tấu trình rằng: Vào tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 19,
quan tổng đốc có giao nộp một bản án nói rằng đã bắt được tên Nguyễn Khắc Tự, đồ
đệ của Thừa Sai Cao (Cha Borie), và một người nữa tên là Nguyễn Hữu Năm đã thú
nhận tội cất giấu sách đạo. Quan án Phan Trư đã báo cáo như sau: Nguyễn Hữu Năm
có tội vì cất giấu sách đạo, không chịu đạp ảnh và cũng không chịu bỏ đạo.
Không phải là đạo trưởng nhưng hắn cũng cứng đầu và có tội như đạo trưởng Khoa và Ðiểm.
Vì thế hắn phải xử án chém đầu. Nhưng án này đã được đổi lại ngày 28-11-1838. Còn về tên Nguyễn Khắc Tự giúp việc cho Thừa Sai Cao, đã không chịu đạp ảnh và thuộc hạng cố chấp và bất trị. Vì vậy thần kết án phải đòn 100 roi và lưu đầy xa ba ngàn dặm, tức là đi Phú Yên, khắc vào má bên trái hai chữ 'Tả Ðạo’ và má bên phải hai chữ 'Phú Yên'. Tờ trình của quan án Phan Trư đã được châu phê như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm đã cất giấu sách đạo, còn tên Nguyễn Khắc Tự đã không biết hổ thẹn khi giúp việc cho tên mọi rợ (ám chỉ Cố Cao) và cố chấp không đạp ảnh. Hiển nhiên cả hai tên phải xếp vào hạng cố chấp và bất trị. Mặc dù chúng không phải là đạo trưởng, nhưng chúng cũng không kém mù quáng và cố chấp, và vì vậy phải liệt chúng vào số những người đáng ghét. Vậy cả hai phải bị xử giảo giam hậu. Cứ thế mà thi hành.
Không phải là đạo trưởng nhưng hắn cũng cứng đầu và có tội như đạo trưởng Khoa và Ðiểm.
Vì thế hắn phải xử án chém đầu. Nhưng án này đã được đổi lại ngày 28-11-1838. Còn về tên Nguyễn Khắc Tự giúp việc cho Thừa Sai Cao, đã không chịu đạp ảnh và thuộc hạng cố chấp và bất trị. Vì vậy thần kết án phải đòn 100 roi và lưu đầy xa ba ngàn dặm, tức là đi Phú Yên, khắc vào má bên trái hai chữ 'Tả Ðạo’ và má bên phải hai chữ 'Phú Yên'. Tờ trình của quan án Phan Trư đã được châu phê như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm đã cất giấu sách đạo, còn tên Nguyễn Khắc Tự đã không biết hổ thẹn khi giúp việc cho tên mọi rợ (ám chỉ Cố Cao) và cố chấp không đạp ảnh. Hiển nhiên cả hai tên phải xếp vào hạng cố chấp và bất trị. Mặc dù chúng không phải là đạo trưởng, nhưng chúng cũng không kém mù quáng và cố chấp, và vì vậy phải liệt chúng vào số những người đáng ghét. Vậy cả hai phải bị xử giảo giam hậu. Cứ thế mà thi hành.
Năm sau tức là Minh Mệnh nguyên niên thứ 20, theo lệnh Hoàng
Thượng hạ thần lại đòi hai tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự ra trước sảnh
đường hai ba lần, khuyên nhủ họ thức tỉnh trở về đường ngay. Nhưng chúng vẫn cố
chấp như trước, không chịu đạp ảnh. Thần xin lập tờ bá cáo tâu trình Hoàng Thượng:
Quả thật hai tên Kitô này không phải là linh mục nhưng mù quáng và cố chấp thật
đáng ghét. Thần nghĩ không còn lý gì mà phải giam giữ họ trong tù nữa.
Ðó là tờ trình của thần, nhưng các thượng quan trong tòa Tam Pháp lại xét rằng hai tên này phải xử giảo ngay. Ðến tháng 10 thần lại nhận được thư của tòa Tam Pháp truyền rằng theo lệnh của Hoàng Thượng phải hoãn lại việc hành quyết và triệu tập hội đồng hàng tỉnh, thúc ép họ trong tòa xem có hối cải không, rồi trình lại tất cả sự việc và chờ lệnh. Theo lệnh vừa nói, thần lại gọi hai tên tín đồ Kitô ra trước tòa, khuyên bảo và ra lệnh đạp ảnh, từ bỏ cố chấp.
Chúng vẫn cương quyết không tuân lệnh. Chứng tỏ chúng vẫn chìm đắm trong u mê mù quáng. Vì vậy thần lập tờ trình này để trông thánh chỉ của Hoàng Thượng".
Ðó là tờ trình của thần, nhưng các thượng quan trong tòa Tam Pháp lại xét rằng hai tên này phải xử giảo ngay. Ðến tháng 10 thần lại nhận được thư của tòa Tam Pháp truyền rằng theo lệnh của Hoàng Thượng phải hoãn lại việc hành quyết và triệu tập hội đồng hàng tỉnh, thúc ép họ trong tòa xem có hối cải không, rồi trình lại tất cả sự việc và chờ lệnh. Theo lệnh vừa nói, thần lại gọi hai tên tín đồ Kitô ra trước tòa, khuyên bảo và ra lệnh đạp ảnh, từ bỏ cố chấp.
Chúng vẫn cương quyết không tuân lệnh. Chứng tỏ chúng vẫn chìm đắm trong u mê mù quáng. Vì vậy thần lập tờ trình này để trông thánh chỉ của Hoàng Thượng".
Lệnh cuối cùng của Vua Minh Mệnh: "Chúng tôi, Võ Xuân Cẩn,
Bùi Ngọc Quí và Ðinh Văn Huy, vâng theo lệnh Hoàng Thượng, đã xét tờ trình của
quan vào ngày 21-5. Chúng tôi truyền lệnh như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn
Khắc Tự theo tà đạo, tội đáng chết. Nhưng vì chúng thuộc hạng lê dân ngu dốt và
vì lòng nhân từ của Hoàng Thượng không muốn đối xử cay nghiệt nên đã không ngừng
ra lệnh cho các quan phải khuyên nhủ chúng sửa đổi để được ơn khoan hồng. Thế
nhưng hai tên tội phạm vẫn ngụp lặn trong u mê mù quáng và cố chấp không chịu đạp
ảnh. Vì vậy chúng đã tự chuốc lấy án chết. Vậy hai tội phạm phải bị xử giảo
không trì hoãn nữa để cái chết của chúng răn bảo những kẻ còn cố chấp không biết
tự cải hóạ Cứ thế mà thi hành".
Khoảng 100 binh lính dẫn ông ra pháp trường chung với thày Tự.
Đến nơi hai vị hỏi chỗ xử Đức Cha Cao và hai linh mục Khoa và Điểm năm trước, rồi
dừng lại đúng chỗ đó mà cầu nguyện : "Lạy Chúa xin tạ ơn Chúa cho con được
ân phúc như các ngài…" Nguyện cầu xong, ngồi xuống, ông Quỳnh bình tĩnh chậm
rãi hút hết điếu thuốc được quan trao cho.
Hai người con đến từ giã, ông nhắc họ qua giã biệt thấy Tự,
xin thày về bên Chúa nhớ khẩn cầu cho các con. Thế rồi ông nói những lời sau
cùng : "Cha gởi lời chào các chức sắc và anh em giáo hữu Mỹ Hương. Cầu
chúc mọi người bình an, trung thành giữ đạo. Hãy yêu thương nhau và sống đạo đức,
các con sẽ gặp lại cha trên Thiên Đường"
Nói xong ông nằm xuống trên chiếu trải sẵn, ông quỳnh giang
tay ra nói : "Xưa Chúa cũng chịu giang tay như thế này để chịu đóng
đinh". Quân lính tròng dây qua cổ và giữa tiếng thanh la vang rền. Họ mạnh
tay xiết chặt hai đầu dây, đưa người tôi trung của Đức Kitô về hưởng hạnh phúc
trường sinh.
Đức Lêo XIII suy tôn ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân
phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển thánh.
Ngày nay mọi người vẫn còn cảm kích với hai câu thơ khắc
trên bia mộ ông Quỳnh ở xứ Kim Sen, nơi thi hài ông được an táng với tổ tiên
dòng họ :
"Nghĩa khí nêu cao trên đất nước,
Oai linh phù hộ khắp non sông"
Nguồn St
Trường thi tử đạo
Antôn Quỳnh sinh năm Mậu Tý (1768)
Làng Mỹ Hương tỉnh lỵ Quảng Bình
Hai anh tu học chủng sinh
Mẹ Cha bắt lập gia đình bản thân
Khi tới tuổi vua cần bắt lính
Gia nhập vào có tính hiên ngang
Phú Xuân giặc giã dẹp tan
Anh thật can đảm phong hàm chức cai
Hết loạn lạc anh khai xuất ngũ
Về gia đình bạn rủ học nghề
Bán buôn làm thuốc làm thuê
Mát tay thầy thuốc, hết chê tiếng đồn
Coi người bệnh sớm hôm thăm viếng
Với tình thương thực hiện lòng nhân
Tiền bạc bác ái ân cần
Chỉ lo giúp đỡ xa gần bệnh nhân
Làng Mỹ Hương đang cần trùm trưởng
Ðã chọn ông trọng thưởng công đầu
Ðức cha để ý ông lâu
Muốn phong Thầy giảng, phép mầu cho ông
Vua Minh Mệnh tấn công bắt đạo
Rất gắt gao xục xạo khắp nơi
Thừa sai chạy trốn tơi bời
Việt Nam đạo trưởng, cũng thời trốn chui
Cố Kim sai tới lui làng cũ
Lấy đồ dùng, ông Dụ gia nhân
Lính liền chận lại cầm chân
Trùm Quỳnh dấu Cố, xa gần nơi đâu
Ông Dụ chối, hồi lâu thú nhận
Có đồ đạo ở tận Kim Sen
Quân quan vội vã đuốc đèn
Bao người có mặt, quan bèn bắt ngay
Người con cả đem ngay tiền chuộc
Ðược tha ra chỉ buộc Trùm Năm
Chuyển về Ðồng Hới giam cầm
Giải đi khám lớn, trung tâm nhốt tù
Tại khám lớn là khu đạo trưởng
Cùng Thừa sai được hưởng xiềng gông
Nơi đây nhốt cũng khá đông
Bao người thăm viếng, cộng đồng giáo dân
Quan Lệ Thủy lại gần tra hỏi
Ông Trùm Năm chỉ nói mấy cha
Bắt giam bị nhốt trong nhà
Không khai vị khác, thật là khôn ngoan
Ông bị tra dã man khổ cực
Nhưng vững lòng nhất mực không khai
Quan bộ tức giận tát tai
Ông không quá khóa, quan sai lính liền
Khiêng qua ảnh, buồn phiền ông nói
Ðó quan làm theo lối bạo quyền
Trước mặt Chúa, tôi bình yên
Lòng tôi kiên vững, một niềm đức tin
Con ông Năm đã tìm đến báo
Cho hai vị tử đạo biết ngay
Trối trăn mọi việc trao tay
Nhà tù đóng cửa chẳng tày tiếp ai
Riêng hai vị kêu nài khẩn nguyện
Ra pháp trường trực diện sẵn sàng
Lý hình hống hách gươm mang
Tay vung một nhát nhẹ nhàng đầu rơi
Quan cho phép vào thời lấy xác
Ðem về chôn phó thác nghĩa trang
Mồ êm mả ấm Nghệ An
Hồn về Thiên quốc Chúa ban phúc lành
Phúc tử đạo ghi danh Canh Tý (1840)
Một danh y thiện chí thương người
Sáng danh Chúa cả trên Trời
Suy tôn Canh Tý (1900) tuyệt vời thánh nhân
Lời bất hủ: Ông tuyên xưng đức tin trước các quan. "Thà
chết không thà chối đạo, dù chỉ là trong giây lát". Quan cho lính lôi ông
qua Thập giá, ông lớn tiếng phản kháng: "Việc này do quan lớn làm, nếu có
tội là quan phạm tội, chứ không phải tôi". Thánh nhân khuyên các con:
"Cha đã nuôi dưỡng các con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả
cho gia đình. Cha muốn dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo
khó".
No comments:
Post a Comment